CHƯƠNG 1
CHIÊU VĂN VƯƠNG
Canh Thìn, Thiệu Bảo năm thứ hai (tức năm 1280 dương lịch),
tại đạo Đà Giang, vùng Tây Bắc Đại Việt;
Sương sớm vùng núi rừng làm cái rét mướt đầu đông thêm se sắt. Đã cuối giờ Mão mà đất trời vẫn chưa thoát cơn ngái ngủ. Trong cái màn tù mù đó, có một đoàn người ngựa phi nước kiệu về khu doanh trại người Man(1) nằm ở thung lũng dưới chân dãy núi xanh ngắt.
Dẫn đầu đoàn người là một thanh niên nét mặt tuấn tú, mi thanh, mắt sáng, vóc dáng cân đối, khỏe mạnh. Đi theo tay thanh niên là đội tám người gồm cả kẻ hầu, phu khuân vác cưỡi chung trên năm con ngựa. Ngoài lũ hầu hạ và phu phen ra, còn có hai rương gỗ nặng trĩu buộc hai bên lưng con chiến mã to khỏe nhất đoàn.
Khi tới gần cổng trại, đoàn người nhanh chóng bị chặn lại bởi những người lính trong bộ áo xanh với thanh mã tấu lăm lăm trên tay. Thanh niên dẫn đầu thấy vậy liền ghìm cương con ngựa ô lông bóng mượt rồi nhảy xuống, bước về phía gã râu ria xồm xoàm, áng chừng là thủ lĩnh đám lính gác.
– Phiền vị tráng sĩ đây vào báo cho Chúa đạo Đà Giang có Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật(2) của Triều đình đến gặp gỡ theo lời hẹn.
Nghe thấy sáu từ “Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật”, gã thủ lĩnh giật mình ngạc nhiên. Y vội quay lại nói xì xồ với tên lính áo xanh đứng bên cạnh. Tên lính “vâng, dạ” liên mồm rồi lật đật chạy vào. Một lát sau, từ phía trong vọng ra tiếng trống “thùng thùng”, tiếp nối bằng hồi kèn đón khách đặc trưng của người Man. Gã thủ lĩnh nghe thấy hồi kèn thì khoát tay ra lệnh cho bọn lính đứng dẹp thành hai hàng, còn y đích thân giơ tay mời người khách trẻ có thân phận khác thường đi theo mình.
Người trẻ tuổi mỉm cười quay lại hạ lệnh cho bọn phu phen tháo hai rương đồ, lồng đòn gánh và khênh vào. Cùng lúc đó, đám lính trong trại Man nghe tiếng trống và kèn đã túa ra đứng thành đội ngũ nghiêm chỉnh. Dù mới tảng sáng mà trang phục bọn họ đều gọn gàng, mã tấu dắt ngay ngắn bên hông, tác phong nhanh nhẹn, hàng lối chỉnh tề. Trong chốc lát, cả trại Man bừng tỉnh giấc, đón tiếp người khách bất ngờ bằng sự cẩn thận thái quá có đôi phần đe dọa.
Người thanh niên trước cảnh trang nghiêm vẫn ung dung như không, chàng nhẹ nhàng cất bước theo chân tên thủ lĩnh. Vừa đi, người thanh niên vừa trò chuyện với gã râu ria bằng tiếng Man rất chuẩn, thăm hỏi gia cảnh nhà y và tán gẫu về thời tiết, đặc sản của vùng thung lũng bên bờ sông Đà. Tên thủ lĩnh ban đầu chỉ trả lời qua loa, nhưng bằng vào sự hiểu biết và thông thạo của người thanh niên, chỉ lát sau y đã cười nói sôi nổi với chàng như người bạn tâm giao lâu ngày gặp lại. Hai người mải chuyện trò nên chẳng mấy chốc đã đi tới căn nhà sàn bề thế nhất trong doanh trại, được dựng sát lưng vào vách núi dựng đứng.
Người thanh niên ngước mắt nhìn, không khỏi kêu lên trầm trồ thán phục. Chàng thân làm Vương gia Đại Việt, các phủ đệ xa hoa cũng biết tới nhiều, nhưng căn nhà sàn của Chúa đạo miền ngược lại có nét đẹp rất riêng. Nó không những lớn hơn nhiều lần so với các căn nhà sàn thông thường khác, mà còn được trang trí bằng các tấm da báo hoa, báo đốm và cả da hổ treo đầy ở mặt đằng trước. Người thanh niên tấm tắc khen ngợi, rồi sau đó bước lên thang, mặc kệ hàng lính gác mặt mày bặm trợn đang nhìn chằm chằm.
Bên trong nhà sàn rộng rãi, thoáng khí, nền gỗ được phủ kín bằng các mảnh da thú. Còn trên các cột, các tường là đủ thể loại cồng, chiêng, đầu thú dữ, thậm chí còn có một đôi đao dài. Ngồi ngay dưới đôi đao là gã trung niên mắt sâu, mũi to, râu ria xồm xoàm trông hung dữ như tượng hộ pháp canh đền. Trung niên mặc áo da hổ tay trần, để lộ ra cơ bắp cuồn cuộn, rắn chắc của vị chúa tể vùng sơn cước. Ngồi thành hai hàng bên dưới trung niên là hơn chục tay tù trưởng dáng vẻ hùm sói không thua gì vị Chúa đạo của bọn họ. Chàng thanh niên bước vào giữa đám người hung dữ đó, thật hơi giống khuê nữ nhà lành bất chợt bị rơi vào giữa ổ trộm cướp.
Trước các ánh mắt như muốn ăn tươi nuốt sống, người thanh niên vẫn điềm nhiên như không. Chàng vẫy tay ra hiệu cho bọn phu phen khiêng hai hòm đồ để sang một bên. Sau khi lũ người chuyên khuân vác xong việc và lục tục kéo xuống khỏi nhà sàn, còn hai đứa hầu đi theo thì ngoan ngoãn quỳ sau lưng, người thanh niên mới ngồi xuống tấm nệm thêu hoa văn ở vị trí đối diện vị chúa tể người Man.
– Tôi là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, nay theo lời hẹn với Chúa đạo nên tới đây gặp gỡ!
Tay Chúa đạo không trả lời ngay mà nheo mắt ngắm nghía người thanh niên. Rồi gã bất chợt cười ha hả, giọng oang oang như tiếng cồng chiêng gióng lên khi xung trận, hào sảng mà đầy uy hiếp:
– Ha ha ha… Trịnh Giác Mật ta vốn nghe đồn Chiêu Văn Vương là người trí dũng, văn võ toàn tài. Bây giờ thấy Vương còn có dạ can đảm khác thường, đi vào chỗ chết mà coi như không.
Bọn người Man trong trướng tuy đều dũng mãnh oai phong, nhưng câu nói của gã trung niên ngoài âm thanh vang rền còn chứa nội lực hùng hậu. Chúng Man đều thấy ù tai hoa mắt, phải vội vã trấn định tinh thần. Tuy nhiên người thanh niên chẳng bị ảnh hưởng trước lời uy hiếp, chàng nở nụ cười tươi rói, rồi dùng tiếng Man rất chuẩn đáp lại tay trung niên:
– Nhật Duật tôi mới lên vùng này đóng quân được ít lâu, nhưng từ xưa khi còn ở kinh thành đã rất yêu thích tập tục, lối sống của người miền ngược. Được biết các anh em suốt một dải Đà Giang cực kỳ can trường, hào sảng, lại vô cùng hiếu khách. Những đức tính quý báu đó làm tôi rất ngưỡng mộ. Vì thế khi Chúa đạo có lời hẹn gặp gỡ nhưng phải đi một mình, không được có binh lính theo hộ tống, Nhật Duật vội vàng sửa soạn quà lễ lên đường mà không cần suy tính. Vì tôi quan niệm tới gặp các vị chẳng khác nào đi gặp anh em ruột thịt trong nhà, vậy mà sao Chúa đạo lại bảo tôi đi vào chỗ chết?
Giác Mật nghe vậy, lại thấy người thanh niên mặc bộ quần áo tía, đầu quấn khăn tía và trên cổ có đeo một chiếc vòng đính đầy răng hổ theo đúng lề lối trang phục sang trọng nhất của người Man chỉ dùng khi có dịp quan trọng, hoặc để tỏ lòng tôn kính lúc gặp gỡ khách quý, liền vỗ đùi khen “hay” rồi đáp:
– Vương nói phải lắm, những lời vừa rồi coi như ta sai. Vậy Giác Mật này xin kính người anh em bình rượu để tạ tội.
Lời vừa dứt, Chúa đạo liền sai một tên tù trưởng chạy xuống dưới hạ lệnh cho bọn người hầu mang rượu, thịt lên mở tiệc. Chỉ nghe hàng loạt các tiếng bước chân rầm rập, rồi lũ lính áo xanh lần lượt bê các đĩa thịt trâu, bò, hươu nai và cả những bình rượu tròn lẳn, nâu bóng, miệng vẫn còn được bịt kín bởi các mảnh da thú để lan tràn ra khắp sàn nhà.
Sau khi lũ lính bày biện xong xuôi, ngay trước mặt vị khách quý, Chúa đạo Giác Mật vẫn điềm nhiên thò tay vào đĩa thức ăn, bốc nắm thịt to bỏ vào mồm nhai nhồm nhoàm. Đối diện với cảnh ăn uống thô lỗ, Chiêu Văn Vương hoàn toàn thoải mái. Chàng giơ tay ngỏ ý muốn xin lại đĩa thịt của Chúa đạo. Giác Mật thoáng ngạc nhiên nhưng vẫn cầm lên đưa cho chàng. Trần Nhật Duật đón lấy, rồi giống hệt Chúa đạo, chàng cũng dùng tay không bốc thịt ăn.
Giác Mật và các tù trưởng người Man trông thấy cảnh đó thì cùng “ồ” lên thích thú. Hóa ra theo tập tục người Man, việc ăn chung một đĩa thức ăn, và phải ăn bốc bằng tay, có ý nghĩa tỏ rõ sự cùng chung hoạn nạn của anh em, bạn bè thân thiết.
– Hay lắm, chẳng ngờ việc ăn uống phàm tục của chúng ta mà Vương cũng rất tỏ tường. Vậy còn cách uống rượu thể hiện chí khí nam nhi, chẳng hay Vương có biết?
Nhật Duật mỉm cười gật đầu. Rồi chàng lấy bình rượu để bên cạnh, mở tấm da thú bịt miệng. Mùi rượu thơm ngát tỏa khắp căn nhà sàn. Sau đó, chàng lấy chiếc cần dài bằng tre để bên cạnh cắm vào chiếc bình và dùng mũi để uống.
Trông thấy Chiêu Văn Vương uống rượu bằng mũi, tất cả người Man trong trướng đều trầm trồ thán phục. Lát sau, Nhật Duật uống xong cầm bình rượu đưa về phía Chúa đạo. Giác Mật gật gù tỏ vẻ hài lòng, rồi cùng với cách mà chàng vừa làm, gã cũng dùng chiếc cần tre của mình và uống bằng mũi. Sau hơi rít dài, Giác Mật để bình rượu sang một bên rồi vòng tay thi lễ với Nhật Duật, đoạn nói:
– Vương gia tỏ tường phong tục của chúng tôi như thế, đích thị kiếp trước cũng là người miền ngược, anh em với tất cả ở đây. Do vậy Vương có điều gì cần trao đổi, xin mời nói thẳng ra!
Chiêu Văn Vương mừng rỡ, vòng tay đáp lễ Giác Mật:
– Chúa đạo đã nói vậy thì Nhật Duật tôi xin được bày tỏ hết cõi lòng. Từ xưa, khi Đức Thái Tông lập ra nhà Trần, đã mấy chục năm nay Triều đình luôn để cho đạo Đà Giang tự chủ. Ngay cả khi Đức Quan gia(3) có phân công Chỉ huy sứ lên vùng này, cũng chỉ để cai quản đám con dân Đại Việt, còn lại các sắc dân khác chúng tôi luôn tôn trọng, để cho các vị sinh sống tự do và tự trị trong địa bàn của mình. Thế nhưng không hiểu sao trong thời gian gần đây, các vị nổi lên chống lại Triều đình, cướp phá các bản làng, thành thị của Đại Việt dọc khu vực thung lũng ven bờ sông Đà. Do lo ngại an ninh và cũng không muốn động binh đao làm mất tình cảm gắn bó bền chặt qua bao đời nay giữa miền xuôi và miền ngược, nên Đức Quan gia mới lệnh cho tôi lên vùng này tìm hiểu, khuyên giải Chúa đạo dẹp bớt các việc đao thương. Có thù oán, hiềm khích gì thì hai bên cùng nhau giãi bày, chia sẻ.
Nghe tới đây, Giác Mật thở ra một hơi, đáp:
– Nếu ai cũng có tấm lòng như Đức Quan gia và Chiêu Văn Vương thì chúng tôi nào có dạ làm phản. Chẳng qua Chỉ huy sứ cũ ở vùng này kiêu căng phách lối, lại hay ỷ thế quan binh Triều đình đến quấy rầy các bản làng trên miền ngược. Giác Mật thấy anh em chung dòng máu bị hà hiếp thì không chịu nổi mới dấy binh làm loạn, nay nghĩ lại thấy quả là lỗ mãng.
– Chỉ huy sứ cũ đã bị triệu về Thăng Long xử tội theo quân pháp. Giờ tôi lên chỉ huy vùng này, các việc quấy rối người miền ngược sẽ chấm dứt triệt để. Xin Chúa đạo chớ lo!
Giác Mật biết Triều đình không trách tội mình mà thực tâm muốn giảng hòa. Chúa đạo thấy rất cảm kích, vội vã vòng tay:
– Có những lời này của Chiêu Văn Vương, Giác Mật xin lập tức bãi binh, trở lại làm phên dậu cho Triều đình.
Nhật Duật mặt mày giãn ra, nở một nụ cười thoải mái:
– Chúa đạo nghĩ thế là phải lắm. Và để tỏ lòng yêu quý, Đức Quan gia có nhờ tôi chuyển tặng Chúa đạo hai thùng lễ vật. Mong Chúa đạo nhận cho!
– Quà tặng của Đức Quan gia, Giác Mật nào dám chối từ.
Chúa đạo Đà Giang nói xong liền ra lệnh cho bọn lính lên nhà sàn khiêng hai rương quà tặng đem cất đi. Chờ cho lũ lính xong việc, Nhật Duật lại nói tiếp:
– Ngoài những việc vừa rồi, chắc Chúa đạo cũng biết người Thát Đát(4) ở phương Bắc đang sắm sửa khí giới, huấn luyện binh sĩ, chờ thời cơ cất quân sang xâm lược nước ta. Trước nay người Việt cùng người miền ngược ở dọc một dải Đà Giang thân thiết như anh em trong nhà. Nay có kẻ từ phương Bắc tới, nếu anh em không giúp nhau, để kẻ kia chiếm được bờ cõi thì e rằng tất cả chúng ta đều phải chịu khổ đau dưới sự thống trị của bọn ngoại bang. Chính vì việc này, Đức Quan gia đã cho soạn một đạo chiếu chỉ dành riêng cho Chúa đạo và nhờ tôi đích thân mang lên đây.
– Giác Mật đã hiểu. Vậy chiếu chỉ của Đức Quan gia ra sao, kính thỉnh Vương cứ đọc. Tôi xin rửa tai lắng nghe.
Trần Nhật Duật gật đầu rồi đưa tay ra hiệu cho một tên hầu đang quỳ sau lưng. Tên hầu này dáng người thanh mảnh, mắt răm mày liễu mười phần đẹp đẽ. Y thấy chủ nhân ra hiệu thì rút từ trong tay áo ra tờ chiếu thư màu vàng dâng lên chủ nhân.
Chiêu Văn Vương giơ tờ chiếu thư lên cao quá đầu rồi kính cẩn mở ra. Chàng bình thường nét mặt hòa nhã, lúc nào cũng tươi cười nhưng khi cầm chiếu thư trên tay lại tỏ ra rất nghiêm túc. Giọng Nhật Duật cất lên sang sảng trong trướng. Chàng nội lực hùng hậu, tiếng đọc lại trầm bổng nên từng câu từng chữ vang lên rõ rệt in vào lòng người:
-… Người dưới xuôi hay người miền ngược đều là anh em một nhà, môi hở thì răng lạnh, em ngã thì anh đau. Nay quân Thát Đát luôn nhòm ngó bờ cõi phía nam. Chúng là quân hung dữ, ác độc, vó ngựa đi đến đâu giày xéo bờ cõi giang sơn, tàn phá làng mạc, gia đình, giết hại người già, trẻ nhỏ, ngay cả cỏ cây cũng chết rạp. Giặc tuy tàn bạo nhưng chỉ cần anh em đồng thuận, đồng lòng, gia đình trên dưới như một, cả nước trước sau như nhất thì đủ khả năng lấp bể dời non huống hồ là đuổi bọn hổ lang sài báo. Vậy nay phong Chúa đạo Giác Mật trấn thủ xứ Đà Giang, chung tay cùng trẫm bảo vệ biên thùy trước sự dòm ngó của quân điểu ác. Mọi tập tục sinh hoạt của người miền ngược đều duy trì như cũ, xứ Đà Giang là khu tự trị của người miền ngược không phải tô phu nộp cống, khi có giặc thì cùng quân Triều đình bảo vệ bờ cõi giang sơn. Khâm thử!
Nhật Duật đọc xong trao lại chiếu thư cho Giác Mật. Chúa đạo cầm tờ chiếu lạy tạ, đoạn nói:
– Đức Quan gia đã tin tưởng như vậy thì không có lý gì chúng tôi không một lòng với Triều đình. Xin Chiêu Văn Vương cứ yên tâm, tôi nay thay mặt cho người miền ngược ở Đà Giang nguyện ra công gắng sức bảo vệ bờ cõi nước nhà.
Nhật Duật thấy vậy vô cùng mừng rỡ, nói thêm vài câu khẳng định tình anh em bền chặt giữa Triều đình và vùng Đà Giang. Chúa đạo Giác Mật cười ha hả sung sướng, rồi quay xuống cất giọng sang sảng hạ lệnh cho thuộc hạ bên dưới nổi nhạc ăn mừng. Toàn bộ doanh trại hò reo ầm ĩ, âm thanh réo rắt chấn động cả góc trời.
* * * * *
Trần Nhật Duật ra khỏi trại của người Man một đoạn thì thấy trước mặt hiện ra rừng người ngựa, cờ xí rợp trời. Giữa đám cung, tên, giáo, mác, có một lá cờ vàng lớn thêu ba chữ “Chiêu Văn Quân” tung bay trong gió. Đoàn quân nhác thấy bóng chàng thì reo to mừng rỡ. Từ trong đội ngũ có một tướng trẻ diện mạo oai phong thúc ngựa phi gấp về phía trước. Cách phái đoàn chừng nửa trượng, viên tướng nhảy từ trên lưng ngựa xuống rồi chạy đến trước mặt Nhật Duật hành lễ:
– Đức ông, người đã trở về bình an! Thật may quá!
Nhật Duật xuống ngựa đỡ viên tướng dậy, vỗ vai động viên. Gã trẻ tuổi tên Lê Thạch, là phó tướng của Chiêu Văn Quân. Lê Thạch từng nhiều lần chứng kiến vị chủ tướng của mình tự thân đi vào sào huyệt của kẻ địch hung dữ, nhưng do vốn tính cẩn thận nên lần này gã vẫn hết sức lo lắng. Phải cho tới giờ, khi nhìn thấy chủ tướng hoàn toàn bình an, Lê Thạch mới đỡ thấp thỏm. Nhật Duật nói chuyện với viên phó tướng thêm vài câu thì nhớ ra một việc, liền dặn:
– Ngươi mau truyền lệnh cho đội Báo Hoang rút lui. Nếu để bọn Giác Mật phát hiện ra thì không hay chút nào!
– Vâng, thuộc hạ xin làm ngay!
Viên tướng nói đoạn nhảy lên lưng ngựa, thúc con chiến mã phi như bay về một lối nhỏ gần đó dẫn thẳng lên đỉnh núi. Nhật Duật nhìn theo bóng người thuộc hạ trung thành, đoạn mỉm cười lên ngựa, rồi dẫn đội phu phen thong thả tiến lại chỗ đoàn quân đang hò reo vang dội.
* * * * *
* Chú thích:
(1) Người Man: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có đoạn chép về sự kiện Chiêu Văn Vương đi dụ hàng Giác Mật như sau: “Khi tới trại, người Man dàn vây mấy chục lớp và đều cầm đao thương chĩa vào phía trong. Nhật Duật đi thẳng vào, trèo lên trại. Mật mời ông ngồi. Nhật Duật thạo biết tiếng nói và am hiểu phong tục của nhiều nước, cùng ăn bốc, uống bằng mũi với Mật. Người Man thích lắm”. Từ “người Man” ở trong truyện là gọi theo tích này ghi trong Toàn Thư.
(2) Chiêu Văn Vương: Tên thật là Trần Nhật Duật, là con trai thứ sáu của Trần Thái Tông, vị Vua đầu tiên của triều Trần.
(3) Quan gia: Thời Trần, Vua được gọi là Quan gia.
(4) Thát Đát: Là cách triều Trần gọi người Mông Cổ và các dân tộc du mục ở phía bắc Trung Quốc thời bấy giờ.