Kiến

Chương 3.5


Ngay khi pheromon này được thả, tinh thần được giải tỏa và một quyết định nhanh chóng được đưa ra. Mọi người bắt tay vào việc.

BỘ BINH THỔ: Vào thế kỷ XIV, vua Thổ Nhĩ Kỳ Murad I tạo ra một đội quân khá đặc biệt, mà người ta đặt tên là Bộ binh Thổ (tiếng Thổ là yeni tcheri, quân đội mới). Bộ binh Thổ có một đặc điểm: nó chỉ được tạo thành từ trẻ mồ côi. Thực vậy, quân lính Thổ, khi cướp phá một ngôi làng Armenia hay Slave, nhặt luôn trẻ con ở đó và nhốt chúng trong một trường quân sự đặc biệt, tại đây chúng không thể biết gì về phần còn lại của thế giới. Chỉ được đào tạo về nghệ thuật chiến đấu, những đứa trẻ này tỏ ra là những chiến binh giỏi nhất của cả Đế chế Ottoman và không ngần ngại tàn phá những ngôi làng mà gia đình thật sự của chúng đang sống. Không bao giờ Bộ binh Thổ có ý định chống lại những kẻ bắt cóc mình khỏi bố mẹ chúng. Trái lại, sức mạnh của đội quân này không ngừng tăng lên, điều đó cuối cùng làm vua Thổ Mahmut II lo lắng, người đã tàn sát chúng và cho đốt ngôi trường năm 1826.

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

Giáo sư Leduc mang đến hai cái hòm lớn. Từ một cái, ông lôi ra một kiểu máy khoan tay chạy xăng lạ lùng. Ngay lập tức ông bắt đầu phá bức tường do cảnh sát xây, tới khi làm thành cái lỗ tròn cho phép chui qua được.

Khi tiếng ồn ào ngừng, bà Augusta tới mời một tách trà cỏ roi ngựa, nhưng Leduc từ chối và ung dung giải thích là nó có nguy cơ làm ông ấy buồn đi tiểu. Ông quay lại phía một cái hòm khác và lôi từ đó ra một bộ đầy đủ dụng cụ của nhà thám hiểm hang động.

– Anh nghĩ là sâu đến thế à?

– Thành thật mà nói, thưa bà yêu quý, trước khi tới gặp bà tôi đã thực hiện một nghiên cứu về tòa nhà này. Thời Phục hưng, các nhà thông thái đạo Tin Lành sống ở đây và họ đã xây một lối đi bí mật. Tôi gần như chắc chắn là lối đi này đổ ra rừng Fontainebleau. Chính nhờ nó mà những người theo đạo Tin Lành này thoát khỏi tay những kẻ săn đuổi mình.

– Nhưng nếu những người đã xuống dưới đó thoát ra rừng, tôi không hiểu tại sao họ không hiện ra nữa? Có cháu trai tôi, chắt tôi… cháu dâu tôi, hơn một chục lính cứu hỏa và các hiến binh, tất cả những người này chẳng có lý do gì để trốn cả. Họ có gia đình, bạn bè. Họ không theo đạo Tin Lành và không còn chiến tranh Tôn giáo nữa.

– Bà có thật sự chắc thế không, thưa bà?

Ông ta nhìn bà với vẻ buồn cười.

– Các tôn giáo đã lấy tên mới rồi, chúng khoe mình là những triết học hay… những khoa học. Nhưng chúng vẫn đều độc đoán.

Ông sang phòng bên cạnh để mặc bộ quần áo thám hiểm hang động. Khi ông xuất hiện trở lại, khá gò bó, đầu nằm trong cái mũ cát đỏ tươi có một cái đèn trên trán, Augusta suýt phì cười.

Ông nói tiếp như không có gì cả.

– Sau những người theo đạo Tin Lành, căn hộ này được người của các giáo phái đủ mọi hạng ở. Một số say mê tôn giáo thờ nhiều thần cổ xưa, những người khác thích hành tây, hay củ cải đen, tôi biết gì[12]?

[12] “Tôi biết gì” là câu khẩu hiệu nổi tiếng của Michel Eyquem de Montaigne (1533-1592), nhà triết học, nhà văn, chính trị gia nổi tiếng người Pháp thời Phục hưng.

– Hành tây và củ cải đen rất tốt cho sức khỏe. Tôi hiểu rất rõ là người ta thích chúng. Sức khỏe, đó là điều quan trọng nhất… Nhìn này, tôi điếc, sắp lão suy, và tôi chết dần chết mòn mỗi ngày.

Ông muốn làm bà yên lòng.

– Nào, đừng bi quan, bà còn có vẻ rất khỏe.

– Xem nào, anh đoán tôi bao nhiêu tuổi?

– Tôi không biết… sáu mươi, bảy mươi tuổi.

– Một trăm, thưa anh! Tôi một trăm tuổi cách đây một tuần, và tôi đau khắp cơ thể, và với tôi, chịu đựng cuộc sống mỗi ngày thêm một khó khăn, nhất là từ khi tôi mất tất cả những người tôi yêu.

– Tôi hiểu bà, tuổi già là một thử thách khó khăn.

– Anh còn nhiều câu chua cay như thế nữa không?

– Nhưng mà bà…

– Nào, xuống nhanh đi. Nếu ngày mai, tôi không thấy anh lên, tôi sẽ gọi cảnh sát và chắc chắn họ sẽ xây cho tôi một bức tường lớn mà không ai tới đập nó nữa…

Bị ấu trùng tò vò gặm nhấm liên tục, 4 000 không tài nào ngủ được, ngay cả trong những đêm lạnh nhất.

Vậy nên nó bình tĩnh đợi cái chết, toàn làm những việc lý thú và mạo hiểm mà có lẽ nó không bao giờ đủ dũng cảm để làm trong những hoàn cảnh khác. Khám phá điểm tận cùng của thế giới chẳng hạn.

Chúng vẫn đang trên đường tới những cánh đồng của thợ gặt. 103 683 tranh thủ chặng đường để nhớ lại một số bài học của các vú nuôi mình. Họ giải thích cho nó Trái đất là một hình lập phương, chỉ mang sự sống ở mặt trên của nó.

Nó sẽ nhìn thấy gì nếu cuối cùng nó đến được điểm tận cùng của thế giới, cạnh của nó? Nước? Sự trống rỗng của một bầu trời khác? Người bạn đường bị án treo của nó và chính bản thân nó sẽ biết nhiều hơn tất cả các nhà thám hiểm, tất cả những con kiến đỏ hung từ lúc khởi đầu của mọi thời đại đến giờ!

Dưới cái nhìn ngạc nhiên của 4 000, bước đi của 103 683 bỗng trở thành một bước đi quả quyết.

Đến giữa buổi chiều, khi kiến chủ nô lệ quyết định phá các lối vào, chúng ngạc nhiên không thấy một sự chống cự nào. Thế nhưng chúng biết rõ là chúng chưa tiêu diệt hết quân đội kiến đỏ hung, kể cả có tính đến kích thước nhỏ của tổ. Thế là nghi ngờ…

Chúng tiến càng thận trọng hơn vì quen sống ngoài trời và hưởng một tầm nhìn tuyệt vời nhờ có ánh sáng, chúng hoàn toàn mù lòa dưới lòng đất. Những con kiến đỏ hung vô tính cũng chẳng nhìn rõ hơn ở đây, nhưng ít ra chúng cũng quen vận động ở những đường hầm hẹp của thế giới bóng tối này.

Đám chủ nô lệ tới Cấm Thành. Tất cả đều hoang vắng. Thậm chí có cả một đống thức ăn trên mặt đất, còn nguyên! Chúng đi xuống thêm nữa; những vựa lương thực đầy ắp, có người ở trong những căn phòng này cách đây ít lâu thôi, chắc chắn thế.

Ở tầng thứ – 5, chúng tìm thấy các pheromon mới. Chúng cố giải mã các cuộc nói chuyện dính ở đây, nhưng kiến đỏ hung đã đặt một nhánh cây húng tây mà mùi của nó tỏa ra làm nhiễu tất cả hơi bốc.

Tầng – 6. Chúng không thích cảm giác như thế này, bị nhốt dưới đất. Thành phố này quá tối! Làm thế nào mà những con kiến có thể chịu sống vĩnh viễn trong cái không gian giam hãm và tối tăm như cái chết ấy?

Ở tầng – 8, chúng nhận ra những pheromon mới mẻ hơn. Chúng rảo chân bước, bọn kiến đỏ hung chắc không còn ở xa nữa.

Ở tầng – 10, chúng chộp được một nhóm kiến thợ đang huơ trứng lên. Bọn này chạy trốn trước kẻ xâm lược. Vậy ra là thế! Cuối cùng chúng hiểu ra, cả thành phố chui xuống những tầng sâu nhất hy vọng cứu được con cái quý giá của mình.

Vì tất cả trở nên liên kết chặt chẽ, kiến chủ nô lệ quên mọi cẩn trọng và chạy, tung pheromon tiếng hét chiến tranh nổi tiếng của mình ở khắp các hành lang. Các kiến thợ Chli-pou-kan không tài nào bỏ xa chúng được, và người ta đã ở tầng – 13.

Bỗng nhiên, những con mang trứng biến mất một cách khó hiểu. Về phần hành lang mà chúng đang theo, nó dẫn tới một gian phòng rất lớn mà sàn tràn đầy các vũng mật. Theo bản năng, kiến chủ nô lệ đi vội tới để liếm thứ chất lỏng quý báu, nếu không, có nguy cơ bị thấm xuống đất.

Những chiến binh khác chen lấn nhau đằng sau chúng, nhưng căn phòng thật sự khổng lồ, có chỗ và có mật đủ cho mọi người. Dịu làm sao, ngọt làm sao! Chắc chắn đây là một trong các phòng kiến bình chứa, một con kiến chủ nô lệ đã từng nghe nói về nó: một kỹ thuật gọi là hiện đại bắt một con kiến thợ tội nghiệp cả đời đầu chúc ngược xuống dưới và bụng bị kéo dãn ra hết mức.

Chúng lại chế nhạo dân thành thị lần nữa đồng thời vẫn ngốn mật. Nhưng một chi tiết bỗng nhiên thu hút sự chú ý của một con chủ nô lệ. Ngạc nhiên là một căn phòng quan trọng như thế này chỉ có duy nhất một lối vào…

Nó không có thời gian để suy nghĩ thêm. Những con kiến đỏ hung đã đào xong. Một thác nước từ trần phun xuống. Những con chủ nô lệ cố bỏ chạy bằng hành lang nhưng lối này giờ đã bị một hòn đá to chặn lại. Và mức nước tăng lên. Những con không bị chết vì cú dội vòi rồng đang giãy giụa hết sức mình.

Ý tưởng là của con chiến binh đỏ hung đã nói rằng không nên bắt chước các bậc tiền bối. Sau đó nó đặt ra câu hỏi: Đặc thù của thành phố chúng ta là gì? Chỉ có duy nhất một pheromon: Suối nước ngầm ở tầng – 12!

Thế là chúng đào một cái rãnh từ dòng suối, và thông dòng nhánh này, đồng thời không để nước thấm xuống đất nhờ những chiếc lá nhầy. Phần còn lại liên quan chủ yếu đến kỹ thuật bể chứa. Chúng đã xây một bể chứa nước to trong một gian phòng, rồi đục thủng tâm của nó bằng một cái que. Tất nhiên, việc phức tạp nhất là giữ cái que máy khoan ấy nhô lên khỏi mặt nước. Chính những con kiến treo mình trên trần gian phòng đó đã làm nên kỳ tích này.

Ở dưới, kiến chủ nô lệ múa may và ngọ ngoạy. Phần lớn bị chết đuối, nhưng khi tất cả nước đã được trút xuống căn phòng bên dưới, mực mớn nước khá cao đủ để một số chiến binh thoát được qua cái lỗ trên trần. Kiến đỏ hung hạ chúng mà không phải vất vả bắn axít.

Một giờ sau, món cháo kiến chủ nô lệ không động đậy nữa. Kiến chúa Chli-pou-ni đã thắng. Thế là nó đưa ra châm ngôn lịch sử đầu tiên của mình: Chướng ngại vật càng lớn, nó buộc chúng ta càng phải xuất sắc hơn.

Tiếng va chạm ngầm và đều đặn kéo bà Augusta vào bếp, giữa lúc Giáo sư Leduc cong người chui qua cái lỗ ở tường. Thật đúng là, sau hai mươi tư tiếng! Được một lần có người đáng ghét mà nếu có biến mất cũng chẳng làm bà quan tâm, ông ta phải quay lại!

Bộ đồ thám hiểm hang động rách tả tơi, nhưng ông ta còn nguyên vẹn. Ông ta cũng không đạt được gì cả, điều đó nhìn thấy rõ như cái mũi ở giữa mặt.

– Thế nào?

– Thế nào, thế nào là sao?

– Anh có tìm thấy họ không?

– Không…

Bà Augusta xúc động tột cùng. Đây là lần đầu tiên ai đó leo lên từ cái hố này còn sống và không điên. Thế thì có thể sống sót được qua cuộc phiêu lưu mạo hiểm này!

– Nhưng cuối cùng, có gì ở dưới? Nó có thông ra rừng Fontainebleau như anh nghĩ không?

Ông chui khỏi cái mũ cát.

– Trước tiên bà làm ơn mang cái gì cho tôi uống đã. Tôi đã hết lương thực dự trữ và không uống từ trưa qua.

Bà mang cho ông ta trà cỏ roi ngựa mà bà giữ ấm trong một cái phích.

– Bà muốn tôi nói cho bà có gì ở dưới à? Có một cái cầu thang xoắn ốc dẫn xuống dốc thẳng đứng hàng trăm mét. Có một cái cửa. Có một đoạn hành lang với ánh phản chiếu màu đỏ, đầy chuột cống, rồi tít tận cùng có một bức tường chắc là do cháu trai Jonathan của bà xây. Một bức tường rất chắc, tôi đã dùng khoan khoét lỗ trên đó nhưng không kết quả. Thực ra, nó phải quay hoặc lật qua được, vì có một hệ thống nút mã số chữ cái.

– Những nút mã số chữ cái?

– Vâng, chắc chắn phải gõ một từ trả lời cho một câu hỏi.

– Câu hỏi gì?

– Làm thế nào để xếp được bốn hình tam giác bằng nhau với sáu que diêm?

Augusta không thể nhịn được phá lên cười. Điều đó làm nhà khoa học hết sức khó chịu.

– Bà biết câu trả lời!

Giữa hai lần nấc bà nói được:

– Không! Không! Tôi không biết câu trả lời! Nhưng tôi biết rõ câu hỏi!

Và bà cười, bà cười. Giáo sư Leduc lẩm nhẩm:

– Tôi mất nhiều giờ để tìm. Dĩ nhiên, người ta ra được kết quả với các tam giác nằm trong hình chữ V, nhưng chúng không bằng nhau.

Ông dọn dẹp đồ nghề.

– Nếu bà muốn, tôi sẽ đi hỏi một người bạn là nhà toán học và tôi sẽ quay trở lại.

– Không!

– Sao lại không?

– Một lần, cơ hội, một lần duy nhất. Nếu anh đã không biết tận dụng, quá muộn rồi. Làm ơn mang hai cái hòm này ra khỏi nhà tôi. Vĩnh biệt anh!

Thậm chí bà không gọi taxi cho ông ta. Nỗi ghét cay ghét đắng trong bà đã chiến thắng. Rõ ràng là ông ta có một mùi mà bà không tài nào ưa nổi.

Bà ngồi trong bếp, đối diện bức tường bị phá. Bây giờ tình hình đã tiến triển. Bà quyết định gọi điện cho Jason Bragel và cho Rosenfeld. Bà quyết định đùa một chút trước khi chết.

PHEROMON NGƯỜI: Cũng như các côn trùng trao đổi bằng mùi, con người có một thứ ngôn ngữ mùi qua đó họ bí mật đối thoại với những đồng loại của mình.

Vì chúng ta không có râu phát, chúng ta phóng các pheromon vào không khí từ nách, vú, da đầu và các cơ quan sinh dục.

Những thông điệp này được nhận một cách vô thức nhưng không kém hiệu quả. Con người có năm mươi triệu đầu mút thần kinh khứu giác; năm mươi triệu tế bào có khả năng nhận ra hàng nghìn mùi, trong khi đó lưỡi của chúng ta chỉ biết nhận ra được bốn vị.

Chúng ta dùng cách trao đổi này làm gì?

Trước hết, khêu gợi tình dục. Một người đàn ông rất có thể bị một phụ nữ thu hút chỉ vì anh ta thích mùi thơm tự nhiên của người phụ nữ đó (tuy nhiên rất thường xuyên bị giấu dưới các mùi thơm nhân tạo!). Cũng như thế, anh ta có thể bị một phụ nữ khác chối từ và các pheromon của người này không “nói” với anh ta.

Quá trình này khá tinh tế. Hai con người thậm chí không nghi ngờ cuộc đối thoại khứu giác mà họ có. Người ta sẽ chỉ nói rằng “tình yêu mù quáng”.

Sự ảnh hưởng của các pheromon con người này cũng có thể thể hiện trong các quan hệ tấn công. Cũng như ở loài chó, một người hít được những hơi bốc truyền tải thông điệp “sợ” từ đối thủ của mình, tự nhiên muốn tấn công người đó.

Cuối cùng, một trong những hiệu quả gây ấn tượng mạnh nhất trong hoạt động của pheromon người chắc chắn là sự đồng bộ hóa các chu kỳ kinh nguyệt. Thực thế, người ta đã nhận thấy rằng nhiều phụ nữ sống cùng nhau tỏa ra các mùi, các mùi này điều chỉnh cơ thể họ như thế nào đó để rồi chu kỳ của họ đến cùng một lúc.

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

Chúng nhận ra những thợ gặt đầu tiên ở giữa cánh đồng vàng. Thực tế, phải nói là tiều phu thì đúng hơn; ngũ cốc của họ lớn hơn cả họ và họ phải cắt phần dưới của thân cây để các hạt dinh dưỡng rơi xuống.

Ngoài hái lượm, hoạt động chính của họ là loại bỏ tất cả các loại cây khác mọc xung quanh cây trồng. Để làm việc này họ sử dụng một loại thuốc diệt cỏ tự chế: axít indole-acetic mà họ phun bằng tuyến vùng bụng dưới.

Lúc 103 683 và 4 000 tới, họ hầu như không để ý đến chúng. Họ chưa bao giờ nhìn thấy kiến đỏ hung, và với họ, hai con côn trùng này cùng lắm là nô lệ bỏ trốn hay hai con kiến đang đi tìm tinh chất lomechuse. Tóm lại, bọn vô gia cư hoặc bọn nghiện ngập.

Thế nhưng một thợ gặt cuối cùng cũng phát hiện ra một phân tử có mùi kiến đỏ. Đang theo sau một đồng nghiệp, nó bỏ công việc và tiến lại gần.

Các ngươi đã gặp kiến đỏ? Họ ở đâu?

Trong lúc nói chuyện, hai cư dân Bel-o-kan được biết là kiến đỏ đã tấn công tổ của các thợ gặt cách đây vài tuần. Chúng đã giết hơn một trăm kiến thợ và kiến hữu tính bằng ngòi độc của mình, rồi cướp hết dự trữ bột ngũ cốc. Lúc từ vụ mùa nhằm tìm kiếm những loại hạt mới ở miền Nam về, quân đội của kiến thợ gặt chỉ còn có thể xem xét thiệt hại.

Những con kiến đỏ hung công nhận đúng là chúng đã gặp kiến đỏ. Họ đã chỉ hướng phải đi để tìm thợ gặt. Người ta hỏi chúng, và chúng kể lại chuyến phiêu lưu của mình.

Các ngươi tìm điểm tận cùng của thế giới?

Chúng gật đầu. Thế là những con kia phá lên những pheromon cười tỏa mùi sủi bọt. Tại sao họ lại ồ lên cười? Điểm tận cùng của thế giới không tồn tại sao?

Có chứ, nó tồn tại và các ngươi đã tới nơi rồi! Ngoài các vụ mùa, hoạt động chính của chúng tôi là thử vượt qua điểm tận cùng của thế giới.

Các thợ gặt đề xuất ngay sáng mai dẫn hai “khách du lịch” tới nơi trừu tượng đó. Cả buổi tối dành cho nói chuyện, trú trong cái tổ nhỏ nhắn mà thợ gặt đã đào trong vỏ một cây sồi.

Thế còn những người bảo vệ điểm tận cùng của thế giới? 103 683 hỏi.

Đừng lo, các người sẽ sớm thấy họ thôi.

Có đúng là họ có một thứ vũ khí chỉ bằng một cú có thể đè bẹp cả một đội quân không?

Nhóm thợ gặt ngạc nhiên là những kẻ xa lạ này biết chi tiết đến thế.

Chính xác.

103 683 cuối cùng cũng sẽ biết lời giải cho bí ẩn về vũ khí bí mật!

Đêm đó, nó nằm mơ. Nó thấy Trái đất dừng ở góc thẳng, một bức tường nước thẳng đứng choán lấy Bầu trời và, từ bức tường nước đó bước ra, những con kiến màu xanh nước biển cầm những cành cây keo siêu hủy diệt. Chỉ cần một đầu những cành cây ma thuật này chạm vào bất kỳ vật gì là tất cả bị phá tan tành.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.